N-Một số lưu ý nuôi vịt đẻ trứng
Phương thức nuôi vịt rất phong phú, có thể lựa chọn phương thức nuôi khô hoàn toàn hoặc lựa chọn phương thức truyền thống nuôi có nước bơi lội.
2020-06-16 10:54:02
Bệnh do Tembusu virus trên vịt gây hội chứng giảm đẻ trên vịt (BYD) do một chủng flavirus mới, có tên là Tembusu virus gây ảnh hưởng đến cả đàn vịt giống và vịt đẻ trứng.
1. Đặc điểm và nguyên nhân gây bệnh
Ổ dịch đầu tiên được phát hiện ở Trung Quốc vào 4/2010, đây là dịch bệnh nghiêm trọng trên vịt đầu tiên có nguyên nhân từ Flavivirus.
Bệnh nhanh chóng lan sang hầu hết các vùng chăn nuôi vịt ở Trung Quốc, bao gồm nhiều tỉnh ven biển và các vùng lân cận, tỉnh An Huy, thành phố tự trị Bắc Kinh, tỉnh Hà Bắc, tỉnh Phúc Kiến, tỉnh Quảng Đông, tỉnh Quảng Tây, Tỉnh Giang Tô, tỉnh Giang Tây, tỉnh Sơn Đông và tỉnh Chiết Giang.
Bệnh do Tembusu virus gây ảnh hưởng to lớn tới nền công nghiệp chăn nuôi vịt, đặc biệt ở các nước nuôi vịt nhiều như Trung Quốc và các nước Đông Nam Á (Thái Lan, Malaysia, Việt Nam…).
Tembusu Virus có thể được truyền qua chim và muỗi. Chúng cũng có thể lây truyền qua ô nhiễm phân, môi trường, thức ăn, nước uống, thiết bị và vận chuyển.
Việc vận chuyển vịt bị nhiễm độc ở các khu vực khác nhau (hoặc phương tiện vận chuyển bị ô nhiễm) có thể dễ dàng trở thành một kênh truyền tải quy mô lớn và nhanh chóng của flavivirus.
2. Nhận biết qua triệu chứng và bệnh tích
Triệu chứng bệnh
Vịt đẻ được đặc trưng bởi giảm năng xuất trứng. Lượng thức ăn của vịt đẻ trứng đột nhiên giảm xuống, nhiệt độ cơ thể tăng lên và tinh thần bị suy nhược.
Sau 2-3 ngày, sản lượng trứng giảm mạnh. Trong vòng 1 – 2 tuần, tỷ lệ sản xuất trứng giảm từ 80% – 90% xuống dưới 10% và tốc độ sản xuất trứng dần hồi phục sau 30 ngày.
Tiêu chảy phân xanh cũng thường xuyên xuất hiện trong đàn.
Vịt con có biểu hiện đặc trưng là viêm não, một số có biểu hiện đi lại bất thường, khó khăn hoặc bị liệt, biểu hiện thần kinh như quay, lắc đầu liên tục.
Tỷ lệ chết dao động từ 5 tới 15% tùy thuộc vào điều kiện chăm sóc. Nếu bội nhiễm có thể chết 30 – 50% đàn.
Vit bệnh đứng không vững vững, hai chân dạng ra khi đi, chân co giật, đầu cổ co giật; dễ lăn ngã khi đi, ngã ngửa bụng hướng lên, chân bơi như vật vã, cuối cùng chết do kiệt sức.
Bệnh tích mổ khám
Vịt con, vịt thịt: Biểu hiện phù não, màng não có các điểm xuất huyết lan tràn với các kích cỡ khác nhau và mao mạch máu bị tắc nghẽn.
Buồng trứng xuất huyết nghiêm trọng.
Viêm buồng trứng và thoái hóa trứng non luôn xuất hiện kéo dài dai dẳng ở vịt mắc bệnh. Các nang trứng viêm, xuất huyết, hoại tử hoặc vỡ gây viêm phúc mạc. Ống dẫn trứng phù nề, xuất huyết.
Lách sưng to và sung huyết.
Cơ tim thoái hoá, hoại tử vằn, trắng như luộc, tích dịch trong xoang ngực.
Gan sưng to, nhạt màu hoặc có màu vàng, xoang bụng tích dịch màu vàng.
Bong tróc dạ dày cơ, xuất huyết ở dạ dày tuyến. Niêm mạc ruột có xuất huyết lan tràn.
Phù nề và xuất huyết or hoại tử tuyến tuỵ.
3. Chẩn đoán bệnh
Dựa vào các triệu chứng, bệnh tích lâm sàng
Chẩn đoán sinh học phân tử: PCR, rt – PCR
4. Biện pháp phòng bệnh
Bệnh do Tembusu virus (BYD) chưa có vắc xin phòng bệnh lưu hành hành chính thức ở Việt Nam), vì vậy người chăn nuôi cần chủ động thực hiện tốt các biện pháp An toàn sinh học như vệ sinh, định kỳ sát trùng chuồng trại và khu vực chăn nuôi, chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Vệ sinh phòng bệnh
Tuân thủ và thực hiện nghiêm ngặt chương trình vaccine phòng bệnh trên vịt đẻ.
Tăng cường trợ sức, trợ lực cho đàn vịt bằng các loại thuốc bổ trợ (Vitamin, khoáng chất…) và men tiêu hoá sống.
Khi thời tiết thay đổi cần chủ động điều trị dự phòng các bệnh nhiễm khuẩn bằng kháng sinh, Gluco KC, Vitamin C.
Kiểm soát và thực hiện tốt các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi.
Phun sát trùng chuồng trại định kỳ 1 – 2 lần/tuần.
Phát quang bụi rậm, cây cỏ và khơi thông cống rãnh.
Diệt bọ gậy và định kỳ diệt ruồi muỗi trong và ngoài chuồng nuôi.
Phòng bệnh bằng vaccine
Nếu có vaccine tiêm phòng:
Vịt con tiêm từ mũi 1 lúc 7 ngày tuổi, lặp lại mũi 2 lúc 21 ngày, ở vùng có dịch có thể tiêm sớm cho vịt từ 1 – 3 ngày tuổi.
Tiêm 01 mũi trước thời kỳ để bói 3 tuần và 6 tháng tiêm nhắc lại 1 lần.
Lưu ý về vaccine Tembusu
Các VACCINE SỐNG nhập tiểu ngạch sẽ làm tăng nguy cơ lưu hành và phát tán dịch bệnh ở Việt Nam. Cần cân nhắc thận trọng khi sử dụng. Hầu hết vaccine BYD sống cần điều kiện bảo quản tối ưu (-15 độ C), khi mua hàng trôi nổi sẽ không đảm bảo chất lượng tiêm phòng.
Nếu bắt buộc phải sử dụng vaccine để phòng bệnh, nên lựa chọn vaccine BYD chết để đảm bảo an toàn cho đàn giống và không làm gia tang nguy cơ bùng phát dịch.
Một số hình ảnh minh họa:
Theo nhachannuoi.vn
Phương thức nuôi vịt rất phong phú, có thể lựa chọn phương thức nuôi khô hoàn toàn hoặc lựa chọn phương thức truyền thống nuôi có nước bơi lội.
Lựa chọn vaccine và sử dụng thuốc sát trùng đúng cách là biện pháp quan trọng trong quy trình phòng bệnh cho vật nuôi.
Đối với trường hợp vịt đẻ bị nhiễm bệnh thương hàn, nếu phát hiện sớm và điều trị nhanh thì không có ảnh hưởng đến tỷ lệ đẻ trứng.
Nuôi vịt sinh sản từ 1 ngày tuổi đến hết chu kỳ đẻ, giống chuyên thịt là 66 tuần tuổi và giống chuyên trứng là 72 tuần tuổi.
Bài viết sau đây chúng tôi xin đưa ra những nguyên nhân và cách khắc phục những khó khăn trên mà bà con thường gặp phải khi chăn nuôi vịt đẻ.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến vịt đẻ giảm, chất lượng trứng kém, hay bỏ ăn và chết đột ngột là do Vịt đẻ bị nhiễm...
Vệ sinh chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi giúp hạn chế mầm bệnh trong môi trường gây hại tới vật nuôi.
Nếu bộ lông gia cầm phát triển không tốt, thì dù đã đạt trọng lượng giết thịt cũng rất khó bán, do thương lái chê khi làm lông theo cách công nghiệp
Với những bất lợi của ngoại cảnh và dịch bệnh hoành hành, ngoài kỹ thuật chăm sóc, người chăn nuôi cần nâng cao hiểu biết về kỹ thuật sử dụng vaccine
Cần có đủ nước uống cho vịt đẻ. Nhu cầu lượng nước uống hằng ngày bằng 3 – 4 lần lượng thức ăn tinh.